“Dây cẩm văn” thực ra là một tên gọi
khác của cây “chè vằng”, cây còn có rất nhiều tên gọi khác, như “chè cước man”,
“cây dâm trắng”, “dây vắng”, “mổ sẻ”, “dây vàng trắng”, “bạch hoa trà”, “giả tố
hinh”, tên khoa học là Jasminum subtriplinerve Blume, thuộc họ Nhài (Oleaceae).
Chè vằng là một cây nhỏ, thường thấy
cây mọc thành bụi ở bờ rào hay bụi tre, hoặc bám vào các cây lớn. Thân cây
cứng, chia thành từng đốt, đường kính 5-6mm, chia thành nhiều cành, thân và
cành đều nhẵn, có thể vươn cao 1-1,5m, vươn dài tới 15-20m (vì vậy một số nơi
gọi nó là “dây”). Lá mọc đối, hình mũi mác, phía cuống tù hay hơi tròn, đầu lá
nhọn, dài 4-7,5cm, rộng 2-4,5cm, những lá phía trên nhỏ hơn lá phía dưới, mép
nguyên, trên có 3 gân rõ rệt. Cuống lá nhẵn, dài 3-12mm. Hoa mọc thành xim
nhiều hoa (chừng 7-9 hoa), cánh hoa màu trắng. Quả hình cầu, đường kính 7-8mm
(cỡ bằng hột ngô), khi chín có màu vàng, trong quả có một hạt rắn chắc, mùa quả
chín tháng 7-10.
Cây chè vằng mọc hoang ở khắp nơi,
từ Nam chí Bắc. Tại miền Bắc có ở Hòa Bình, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh. Tại miền Nam đồng bào thường dùng dây vằng để đan rế và đánh dây thừng,
vì dây vằng vừa dẻo lại dai.
Để sử dụng làm thuốc, có thể hái lá
quanh năm, dùng tươi hay phơi khô để dành.
Đặc biệt lưu ý: Cần rất thận trọng,
tránh nhầm lẫn cây chè vằng với cây “lá ngón” – một cây cực độc, chỉ cần ăn 3
chiếc lá ngón, là đủ chết người. Lá ngón còn có tên là “đoạn trường thảo” vì
người ta cho rằng, ăn lá ngón đứt ruột mà chết. Nhìn thoáng qua, cây chè vằng
và cây lá ngón hao hao như nhau, vì lá hai cây đều mọc đối, có hình trứng thuôn
dài, hoa đều mọc thành xim, … Nhưng cây lá ngón là loại dây leo, có hoa màu
vàng, còn chè vằng có hoa màu trắng. Nói chung, nếu muốn có chè vằng thứ thiệt,
cần tự mình đi thu hái, dưới sự hướng dẫn của người có kinh nghiệm; hoặc mua ở
những cửa hàng Đông Nam dược có uy tín.
Về
tác dụng của lá chè vằng:
– Theo Đông y: Chè vằng có vị hơi
đắng, tính mát. Có tác dụng thanh nhiệt lợi thấp, hoạt huyết, tiêu viêm.
– Dân gian từ xưa thường dùng lá chè
vằng sắc nước cho phụ nữ uống thay nước sau khi sinh đẻ, giúp ăn ngon cơm,
phòng các chứng hậu sản và mau chóng phục hồi sức khỏe. Có nơi dùng lá nấu nước
tắm cho trẻ con bị ghẻ lở. Tại miền Nam, dân gian còn dùng lá chữa sưng vú,
chữa rắn cắn; rễ mài với giấm thanh để làm hết mủ những ung nhọt đã nung mủ.
Một số người còn dùng lá chữa viêm ruột, kiết lỵ, rối loạn tiêu hóa và thấp
khớp hay bị thương đau nhức.
– Bệnh viện Thái Bình từng làm kháng
sinh đồ, để so sánh tác dụng của chè vằng với penixilin 1 đơn vị quốc tế trong
1ml và streptomyxin 20γ trong 1ml, cloroxit 50γ trong 1ml, nhận thấy: Chè vằng
có tác dụng kháng sinh mạnh hơn các thuốc trên đối với tụ cầu khuẩn
(Staphyllococcus) và liên cầu khuẩn tan huyết (Streptococcus hemolytique).
Mấy năm gầy đây, chúng tôi cũng nghe
nói, một số đấng mày râu đã dùng chè vằng sắc nước uống để giảm béo bụng, kết
quả rất tốt. Tuy chè vằng có độ độc thấp, nhưng theo chúng tôi nghĩ, nếu muốn
áp dụng thử, trước khi uống thuốc bạn nên đến bệnh viện kiểm tra sức khỏe. Sau
khi uống thuốc một thời gian, dù có tác dụng hay không, cần đến kiểm tra lại,
xem có xảy ra chuyện gì không?
Dù sao thì việc sử dụng chè vằng để
giảm “béo bụng” ở nam giới, mới chỉ là một kinh nghiệm, được một số người áp
dụng có kết quả trong vài năm gần đây, cần tiếp tục theo dõi trong thời gian
dài, mới có thể đưa ra kết luận toàn diện.
|
Lá chè vằng |